Trong thời hiện tại, Mật Ma sanh trong một gia đình bùa chú mật phái. Ngài theo học và trở thành sư phụ của phái bùa Lỗ Ban Lỗ Bí. Ngài cũng biết dùng sọ người để luyện Thiên Linh Cái Linh Đực và đạt tới trình độ tối cao của Giáo Phái Bùa.
Thần thông của Ngài tuyệt siêu đến độ Ngài chỉ cần nhắm mắt đọc vài câu thần chú Đà-la-si, dùng Nhất Âm Chỉ gãi gãi vài cái vào sọ người là tức khắc biết ngay tái sanh của kẻ khác, mười lần cả mười đúng y như chóc, không sai chạy một ai. Nhiều đệ tử nghe ngài nói như thế, hết thảy đều thất kinh bái phục. Tất cả cứ luôn mồm xuýt xoa “Thần sầu quỷ khóc! Thần sầu quỷ khóc!”
Vì Ngài có thần thông biết được tái sanh của kẻ khác, và theo phái mật truyền cho nên nhiều người gọi Ngài là Mật Ma Tái Nạm.
Một hôm Mật Ma Tái Nạm đang đi trên đường, bỗng nhiên ngài bắt gặp một dị nhân khác lạ, đầu không một sợi tóc, mép không một cọng râu. Dị nhân hai tay ôm chặt lấy cái mõ vừa đi vừa gõ, miệng ê a tụng đi tụng lại mãi một câu “Á mi tù phù… Á mi tù phù…”
Mật Ma Tái Nạm lấy làm lạ, bèn chặn lại hỏi:
-- Thưa Tiên sinh, ngài đang tu pháp môn gì vậy?
Dị nhân không râu tóc chắp hai tay trước ngực:
-- A-zi-đà Bụt! Tôi tu theo pháp môn Độ Tịnh.
-- Độ Tịnh cao siêu cỡ nào? Đạt được quả chi?
-- Bất cứ ai chỉ cần niệm Bụt danh “A mi tù phù” vài lần là chắc chắn được vãng sanh cực lạc.
-- Kể cả bọn loạn luân, buôn người, diệt chủng?
-- Không sai! Giống như tảng đá to được thuyền to chở tới bến!
-- Giống làm sao được. Tảng đá to không biết giết người, thuyền to nhưng không có trí tuệ, dù chúng có chìm hay nổi cũng chẳng chết ai. Nhưng ở đây là hại mình hại người, đạo đức - vô đạo đức, chúng hoàn toàn khác nhau. Không lập lờ đánh lận con đen được.
Dị nhân trọc lóc tảng lơ như không nghe thấy gì, hai mắt lim dim, mồm leo lẻo ‘Á mi tu phù... Á mi tù phù’. Mật Ma Tái Nạm phì cười hỏi tiếp:
-- À! Nhưng làm sao biết được tất cả đều được bãi đáp an toàn sau khi chết?
Dị nhân không râu tóc liền giơ cao xâu chuỗi được kết bằng các cục xương lớn trước mặt Mật Ma Tái Nạm, nói như hét:
-- Đây là sọ của các con vẹt được tôi huấn luyện. Tất cả chúng nhờ biết niệm “A zi đà” đều được vãng sanh Độ Tịnh. Tôi chỉ cần lần chuỗi vài lượt là tức khắc chúng báo cho tôi biết sanh thú của những người tu theo Độ Tịnh được về đâu!
Mật Ma Tái Nạm nhíu mày nhẹ giọng:
-- Ngài có thể cho tôi xem qua xâu chuỗi được không?
-- Vô tư!
Dị nhân không râu tóc ngước mặt trao xâu chuỗi sọ vẹt cho vị khách lạ. Mật Ma Tái Nạm hai mắt nhắm nghiền, miệng niệm mấy câu thần chú rồi gãi gãi mấy cái vào sọ vẹt.
Vừa trao lại xâu chuỗi sọ vẹt cho Dị nhân, Mật Ma Tái Nạm nhếch mép thở phì:
-- Ngài sai rồi! Mấy con vẹt này đều tái sanh làm két tất cả! Chúng đều cùng một nghiệp báo bắt chước tiếng kẻ khác. Vẹt tái sanh làm két, két tái sanh làm vẹt.
Dị nhân tai mũi đỏ bừng, trợn mắt quát to:
-- Ngươi đừng láo! Chính Bụt A-zi-đà đã phát đại nguyện cứu nhân độ thế! Thậm chí chỉ một niệm tên ngài thôi cũng được cứu rỗi an toàn! Ngươi nói vậy chẳng khác nào tố cáo Bụt A-mi-đà của ta là tào lao nguyện đại! Ngươi là ai, nói mau?
Mật Ma Tái Nạm chắp tay lễ phép:
-- Thưa! Tôi là La Ma thuộc Mật gia chính phái! Tôi làm bộ hỏi ngài vậy thôi, chứ thực ra biết rõ, ngài và tôi đều cùng một Đại giáo thừa, chỉ khác nhau pháp độ.
-- Hừ! Ta và ngươi đúng là đồng một Đại giáo phái. Thế nhưng Bụt A-mi-đà là Bụt A-mi-đà, niệm mật chú là niệm mật chú. Ngươi chớ có hồ đồ, đừng thấy người sang bắt quàng làm họ.
-- Không dám! Thực ra Mật giáo chúng tôi cao siêu nhất, nhiếp cả hai phái Đại Xa và Tiểu Xế. Sự thật vẫn là sự thật, thưa ngài.
-- Láo! Vãng sanh Độ Tịnh nhất quyết vãng sanh Độ Tịnh. Bụt A-mi-tù-phù độ tha số dzách!
-- Ke ke ke! Vẹt phải thành két, két lại hoàn vẹt. Không sai!
-- Vãng sanh Độ Tịnh!
-- Két vẹt, két vẹt!
“Độ Tịnh”… “Vẹt két”… “A-mi-đà”… “két vẹt”… Cứ thế hai bên cãi nhau bất phân thắng bại. Nhiều người qua lại biết chuyện đều lắc đầu bỏ đi. Một số ít hiếu kỳ vây quanh, kẻ đốc bên này, đứa xúi bên kia. Cả đám thích thú quây lấy hai vị đấu sĩ đang khẩu chiến. Tất cả đều cười vui như được xem hai danh hài tấu kịch.
Màn diễn đang tới lúc cao trào, bỗng nhiên từ trong đám đông một khán giả bước ra, dáng vẻ đạo mạo như một thầy giáo. Nhân vật mới cất tiếng:
-- Thôi, xin hai vị chớ có tranh luận hơn thua với nhau, kẻo thiên hạ cười chê. Gần đây có một trưởng lão đại nhân, giới hạnh tinh nghiêm, đạo pháp rành rẽ. Chúng ta hãy cùng đến đó, may ra vị Đạo Sư có cao kiến gì chăng, có thể giúp phân xử đúng sai, phải trái.
Cả đám đông ủng hộ ý kiến của vị khách lạ, cùng kéo hai đấu sĩ đi đến vị trưởng lão Đạo Sư gần đó.
Mọi người đến nơi liền thấy vị Đạo Sư đang ngồi thiền nhập định dưới gốc cây Ta-la to lớn. Đám đông chưa kịp mở lời đã nghe vị Đạo Sư lên tiếng:
-- Thiện tai, thiện tai. Phật Thích Ca đã dạy: “Người đời tranh chấp vì dục tham, tu sĩ tranh chấp vì kiến tham”. Kiến tham là tham chấp tri kiến của mình. Phật dạy đúng thật không sai, đúng thật không sai.
Mọi người nhìn nhau dè chừng sợ hãi. Ai nấy đều hỏi nhau không lẽ vị Đạo Sư này có Thiên nhĩ thông hay sao lại nghe biết hết mọi chuyện? Cả đám đông còn đang phân vân thắc mắc, bỗng thấy vị khách dáng vẻ thầy giáo bước đến trước vị Đạo Sư, chắp hai tay cung kính:
-- Thưa Đạo Sư, chắc hẳn là ngài đã biết rõ mọi sự? Nếu vậy, kính mong Đạo Sư thương tình chỉ dạy.
Vị Đạo Sư từ từ mở mắt, nhìn hai đấu sĩ như ngầm khẳng định lời người vừa nói. Đám đông chưa hết thán phục đã nghe vị Đạo Sư đằng hắng giọng. Chợt từ phía sau cây đa gần đó xuất hiện một trang thiếu niên xăm xăm bước tới. Thiếu niên kính cẩn đảnh lễ vị Đạo Sư rồi lôi từ trong túi áo một cái sọ người trắng hếu. Nhiều người sợ hãi xanh mặt. Lũ con nít rụt cổ lè lưỡi. Thiếu niên vừa giơ cao đầu lâu trắng hếu vừa nói to:
-- Dạ thưa mọi người, cháu là cu Ội, em dzai chị Hằng, nhà dưới gốc cây Đa. Ông Tổ nhà cháu có di truyền cho con cháu cái sọ người này. Ổng nói nó là sọ của một đại sư đắc đạo. Đương thời vị đại sư tu theo nhiều pháp môn khác nhau, ngài vừa dạy niệm thần chú “úm ma ni” vừa dạy niệm Bụt A-mi-tù-phù cho chắc cú. Khi ngài lìa đời, Tổ Ông nhà cháu khẳng định ngài đã tái sanh làm La Ma của Mật giáo, còn Tổ Bà nhà cháu lại cam đoan ngài đã được vãnh sanh Độ tịnh Tây du. Cứ thế hai bên cãi nhau mải miết đến độ phải ra tòa ly dị. Cuối cùng họ phát lời nguyền chừng nào đúng sai phân định, một trong hai chấp nhận thua cuộc nhục nhã, lúc ấy long phụng mới hiệp hòa. Long phụng chưa hòa hiệp hai ông bà cháu đã đứt bóng lìa đời, và truyền lại cho con cháu cái đầu lâu oan gia này. Cả hai cùng nhắn nhủ con cháu phải làm sáng tỏ mối nghi vấn truyền kiếp, có vậy Tổ Ông hoặc Tổ Bà mới được ngậm cười nơi chín suối.
Nghỉ một lát lấy hơi, cu Ội thưa tiếp:
-- Nhà cháu đã đem sọ dừa này đến Đạo Sư đây phán định. Ngài chỉ nhìn cháu mỉm cười rồi cốc vào đầu cháu ba cái. Cháu về suy nghĩ đã ba năm vẫn chưa ra công án. Tháng rồi cháu đem đến hỏi lại, Đạo Sư nói sắp tới sẽ có đoàn người kéo đến đây, cứ mang sọ này ra, mọi chuyện sẽ sáng tỏ. Dạy xong, Đạo Sư lại cốc thêm vào đầu cháu ba cái nữa. Vừa rồi Đạo Sư dùng Thiên nhĩ thông biết được mọi việc và phôn cho cháu mang sọ đến. Chuyện là như thế, kính mong các vị cao nhân ở đây giúp nhà cháu phá tan kỳ án.
Mới nghe đến đấy, Mật Ma Tái Nạm vội vàng rẽ đám đông xăm xăm bước đến bên cu Ội, vung một tay giật lấy sọ người, còn tay kia vươn cao bắt ấn. Mật Ma Tái Nạm lại hai mắt nhắm nghiền, miệng niệm to mấy câu thần chú rồi gãi gãi mấy cái vào sọ dừa.
-- Úm ma ni xì cù lì! Vị Đại sư này chắc chắn đã tái sanh làm La Ma của Mật giáo. Hiện ngài đang ẩn tu giữa hang sâu trên vùng núi Hi Mã Lạp Sơn tuyết giá, không ai đến được.
Mấy đứa con nít đứng gần đó sợ hãi liền nhảy dạt sang một bên. Nhanh như chớp Dị nhân không râu tóc nhào đến cướp lấy đầu lâu từ tay Mật Ma, miệng hô to “Á mi tù phù, Á mi tù phù”. Dị nhân đưa cao đầu lâu khỏi đầu hét lớn:
-- Mọi người chớ có tin lời hắn. Đại sư này đã vãng sanh Tây phương Độ tịnh từ lâu rồi. Hiện ngài đang ở giữa Đài sen thượng phẩm thượng sanh cực sung hành lạc, chờ ngày thành Bụt đúng theo đại nguyện của đức A-zi-đà.
Đám người đứng sau Dị nhân liếc nhìn Mật Ma nhạo cười rung mũi. Mật Ma tím mặt quát lớn:
-- La Ma tái sanh!
Dị nhân rống trả:
-- Vãng sanh Độ tịnh!
“La Ma”… “Độ tịnh”… “La Ma”… “Độ tịnh”… Trận khẩu chiến lại một phen bùng nổ, lần này còn gay cấn hơn lần trước. Đám đông bên ngoài reo hò cổ vũ, còn lũ con nít và cu Ội cứ nhảy tới nhảy lui khoái trá như được dự lễ hội mùa Cá Tháng Tư.
Mọi người còn đang cười nói tranh cãi, bỗng nhiên “Ào…”, một trận lôi phong cực mạnh quét ngang, cuốn phăng chiếc sọ trắng từ tay Dị nhân bay vèo tới đúng tay vị Đạo Sư. Có người la lên:
-- Tam Thất Huyền Công - Siêu Vi Chưởng!
Tiếng kẻ khác tán dương:
-- Yeah! Một tuyệt kỹ công phu tưởng đã thất truyền, hóa ra vẫn còn nơi Đạo Sư!
Mọi người reo vui:
-- Lành thay! Lành thay!
Đạo Sư từ từ đưa cao đầu lâu trắng lên trước mặt, im lặng hồi lâu. Đám đông nhìn nhau chẳng hiểu gì cả, duy chỉ có cu Ội là triệt ngộ, cứ thõng hai tay xoa bụng mỉm cười. Một lát sau có giọng thỏ thẻ:
-- Sao giống tuồng “Niêm lâu vi tiếu” (dương đầu lâu mỉm cười) của gánh hát Tồng Thiên thế nhở?
Tất cả gật gù ra điều lĩnh ngộ. Đột nhiên “đoàng” một tiếng như pháo nổ. Mọi người giật mình nhìn kỹ, chiếc đầu lâu vỡ toang trong tay vị Đạo Sư.
-- Wow, Bát Đạo Thần Công cực kỳ thâm hậu.
-- Hổng phải, nó chính là Giác Chi Hoàng Chưởng của phái Tiểu Xa.
Đám đông chẳng còn ai đủ bình tĩnh phán định nó là “công” hay “chưởng”, tất cả đều nín thở vì sợ hãi. Bỗng nhiên cu Ội cười ré lên như có ai thọc lét. Mọi người giật mình giáo giác nhìn quanh, chợt thấy cu Ội cầm lên một mảnh sọ người dí trước mắt hội chúng:
-- Ha ha ha, các bác xem này, đây chỉ là cái sọ bằng côm-pô-sít nhựa dẻo cho các sinh viên Y Khoa thực tập. Nhà cháu chôm được, đem dọa bọn con nít, có đứa vãi cả ra quần. Hôm nay lừa được nhiều người, duy chỉ có Đạo Sư là không mắc lỡm. Được bấy nhiêu thôi, cu Ội cũng thấy sướng khoái nàm thao. Ke ke ke…
Cười chưa dứt tiếng cu Ội liền bước đến trước mặt La Ma Tái Nạm và Dị nhân không râu tóc, quỳ xuống đảnh lễ như tế sao. Mọi người chưa hết ngạc nhiên đã nghe cu Ội cà kê văn tế:
-- Kính thưa hai vị, nhà cháu bị gọi là Thánh Dóc, nhưng nhà cháu chỉ lừa được bọn con nít. Hôm nay nhà cháu gặp được hai ngài còn cao siêu hơn nhiều, lừa được biết bao nhiêu người, già đầu lẫn trí thức, không chừa một ai. Cu Ội xin tâm phục khẩu phục, kính tôn hai vị lên làm sư Tổ để kẻ hậu sinh biết đường theo học. Kính bái, kính bái, kính bái…
Đám đông cười ồ lên như vỡ chợ, còn La Ma và Dị nhân tai mũi đỏ bừng, hai tay bưng lấy mặt, chạy quăng mất dép. Cũng từ đấy cụm từ “chạy quăng mất dép” mới lan truyền trong dân chúng.
Và lần đầu tiên trong lịch sử, một môn phái có cùng hai vị Tổ sơ. Tất cả huynh đệ, dòng họ, học trò của cu Ội đều nhất mực tôn vinh La Ma Tái Sụn và Dị nhân trụi lủi là hai Dóc Tổ ngang tài, cùng đua nhau thờ cúng hai ngài. Hài hài hài…
DHAMMAPALA
_________________
] Trích Trưởng Lão Tăng Kệ “Migasīra” (Thera. 24)
“Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Kosala, được đặt tên là Migasìra, theo ngôi sao ngày sinh. Học theo văn hóa Bà-la-môn, ngài thực hành bùa chú sọ người, khi ngài đọc lên bùa chú và lấy móng tay gõ trên sọ người, ngài tuyên bố: 'Người này sẽ được tái sanh trong giới này...', cho đến với những người đã chết được ba năm.
Không thích thú đời sống thế tục, ngài trở thành người du sĩ, với hạnh sọ người của ngài, ngài được cung kính cúng dường. Ði đến Sàvatthi, đứng trước mặt bậc Ðạo Sư, ngài tuyên bố sức mạnh của ngài: 'Thưa Tôn giả Gotama, ta có thể nói chỗ tái sanh của những người đã chết'.
Ðức Phật hỏi: 'Ông làm như thế nào?'
Ngài cho đem lại một sọ người, đọc lên bùa chú, với móng tay gõ trên sọ người, ngài tuyên bố đọa xứ v.v... là chỗ tái sanh!
Ðức Phật cho đem lại sọ người của một Tỷ-kheo, đã chứng Niết-bàn và nói: 'Hãy nói chỗ tái sanh của người này'. Migasìra đọc bùa chú, lấy móng tay gõ trên sọ người, nhưng không thấy đầu đuôi như thế nào.
Rồi Thế Tôn hỏi:
- Này du sĩ, có phải ông làm không được?
Ngài trả lời: - Tôi cần phải xác chứng cho chắc chắn!
Nhưng dù cho ngài xoay xở như thế nào, làm sao ngài biết được sanh thú của vị A-la-hán; ngài xấu hổ, toát mồ hôi, im lặng.
- Này du sĩ, có phải ông mệt mỏi?
- Vâng, tôi mệt mỏi, tôi không biết sanh tử của vị này, Ngài có biết chăng?
- Ta biết được và Ta biết nhiều hơn thế nữa! Vị này đã nhập Niết-bàn!
Vị du sĩ nói:
- Vậy nói lên cho con, bí quyết ấy?
- Vậy ông phải xuất gia! Rồi Migasìra xuất gia và được dạy cho đề tài tu định. An trú vững vàng trên thiền và thắng trí, ngài thực hành thiền quán, không bao lâu, chứng quả A-la-hán.
Rồi ngài nói lên chánh trí của ngài như sau:
181. Từ khi ta xuất gia,
Trong pháp bậc Chánh giác,
Giải thoát, ta tiến lên,
Ta vượt qua dục giới.
Trong pháp bậc Chánh giác,
Giải thoát, ta tiến lên,
Ta vượt qua dục giới.
182. Nhờ Phạm-chí quán sát,
Tâm ta được giải thoát,
Ta giải thoát bất động,
Mọi kiết sử đoạn diệt.”
Tâm ta được giải thoát,
Ta giải thoát bất động,
Mọi kiết sử đoạn diệt.”
³ Thừa tự Pháp trích lục:
Kiểu bùa chú sọ người của Bà-la-môn giáo cho đến tận ngày nay vẫn còn dấu ấn, giống như kiểu luyện bùa Thiên Linh Cái chẳng hạn. Tà pháp này đạt đến cực điểm nguy hiểm và quái gở khi có kẻ tin rằng phải giết người lấy sọ để luyện bùa??? Linh ứng đâu không thấy chỉ thấy bị quả báo phải đền mạng và thiên hạ xếp vào loại bị quỷ ma ám ảnh.
Khốn nỗi trong Phật giáo cải biến cũng có niệm thần chú, có nơi còn luyện bùa luyện ngải; cho nên đã có không ít người ngộ nhận lối bùa chú sọ người cũng từ Phật giáo mà ra!!!
Dù bùa chú sọ người có thần năng thế nào nhưng nó cũng phải bất lực trước Đức Phật và các vị Tỷ-kheo đạt đạo. Chính vì thế Migasìra đã bị thuyết phục và trở thành đệ tử Phật, sau cũng đắc quả A-la-hán. Nhưng không phải tất cả Bà-la-môn đều như Migasìra, trái lại theo kinh văn ghi lại có rất nhiều các Bà-la-môn khác cố chấp lấy tôn giáo của mình và chống phá Đạo Phật bằng nhiều thủ đoạn thâm độc.
Một trong những thủ đoạn thâm độc ấy là du nhập các pháp môn của Bà-la-môn giáo vào chính Đạo Phật, ngụy trang thành chính những pháp môn của Phật giáo để phân hóa, biến chất và thủ tiêu Chánh Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Cuối cùng Đạo Phật chỉ còn trên danh nghĩa, với đầy dẫy những pháp môn tà vạy, những luật lệ ô nhiễm, những lễ nghi mê tín, cùng những biến thái quái đản thậm chí đầy thô tục và trần dục.
Mong rằng mọi người con Phật phải tỉnh giác phán xét, suy tư kỹ lưỡng trước những kinh-luật-luận đời mới cùng với các pháp môn cải biên từ các tổ sư gốc Bà-la-môn, nhằm phân biệt rõ chánh - tà, chân - ngụy. Có vậy người Phật tử mới tránh khỏi đọa địa ngục vì tà kiến, vì tội phá hòa hợp Tăng.